1. Mô tả dược liệu:
- Tên Gọi Khác: Tích tuyết thảo, lôi công thảo.
- Tên Khoa Học: Centella asiatica.
- Thuộc Họ: Họ Hoa tán (Apiaceae).
- Thuộc tính: Cây rau má là một loại cỏ mọc bò, có rễ ở các mấu, thân gầy, nhẵn. Lá hình mắt chim, khía tai bèo, rộng 2 -4cm, cuống dài 2 – 4 cm trong những nhánh mang hoa và dài 10cm – 12cm trong những nhánh thường. Cụm hoa đơn mọc ở kẽ lá, gồm 1 – 5 hoa nhỏ. Quả dẹt rộng 3 - 5 mm, có sống hơi rõ.
Cây mọc hoang tại khắp nơi ở Việt Nam và các nước vùng nhiệt đới như Lào, Campuchia, Indonexxia, Ấn Độ… Toàn cây khi tươi có vị đắng, hăng hơi khó chịu khi khô thì chỉ còn mùi cỏ khô. Cây thu hái quanh năm, có thể dùng tươi hoặc sao vàng và dùng để bào chế thành dược liệu cao rau má .
Rau má là thảo dược được dùng từ lâu trong y học cổ truyền Trung Quốc, là thành phần chính trong các bài thuốc chữa lành các vấn đề về da. Chiết xuất cao rau má rất hiệu quả để chữa các vết bỏng, vết thương do chấn thương hoặc vết phẫu thuật, niêm mạc tai mũi họng hoặc sản phụ..., thúc đẩy sức khỏe gan và thận và nhiều lợi ích sức khỏe khác...Cao rau má là dược liệu chiết xuất hoàn toàn từ các thành phần của cây rau má.
- Thành phần hóa học:
Chiết xuất rau má đã được nghiên cứu nhiều, nhưng kết quả chưa thống nhất. Trong cao dược liệu rau má có một ancaloit gọi là hydrocotylin C22H33O8N có độ chảy 210 – 212 độ C. Ancaloit này cho các muối oxalat với độ chảy 29 độ C, muối picrat với độ chảy 110 độ C – 112 độ C, muối cloroplatinat với độ chảy 134 – 136 độ C.
Trong cây rau má thu hái ở đảo Mangat có chứa một glucozit gọi asiaticozit với công thức C54H88O23. Thủy phân asiaticozit sẽ cho axit asiatic và glucoza. Chất glucozit này có tinh thể tan trong rượu, độ chảy 230 – 233 độ C có thể cho một dẫn xuất tan trong nước gọi là oxyassiaticozit có tác dụng điều trị được bệnh lao.
Một số nghiên cứu còn tìm thấy glucozit khác có tên là xentelozit có tính chất gần giống như asiaticozit trong rau má mọc ở Xrilanca. Hiện nay nhiều nhà nghiên cứu cho rằng những saponin (axit asiatic, axit brahmic) có cấu trúc tri – tecpen, có tác dụng tới mô liên kết, giúp cho các mô tái tạo nhanh chóng, do đó làm cho vết thương mau lành và lên da non.