Đăng nhập tài khoản
Nhập email và mật khẩu của bạn:
Khách hàng mới? Tạo tài khoản
Quên mật khẩu?
Khôi phục mật khẩu
Nhập email của bạn:
Bạn đã nhớ mật khẩu?
Giỏ hàng
TỔNG TIỀN: | 0₫ |
Xem giỏ hàng | Thanh toán |
Nhập email và mật khẩu của bạn:
Khách hàng mới? Tạo tài khoản
Quên mật khẩu?
Nhập email của bạn:
Bạn đã nhớ mật khẩu?
Giỏ hàng
TỔNG TIỀN: | 0₫ |
Xem giỏ hàng | Thanh toán |
CAO CHỈ XÁC - CAO DƯỢC LIỆU THIÊN VIỆT NHẬT
- Tên Gọi Khác: Xuyên chỉ xác, Nô lệ; Thương xác; Đổng đình nô lệ.
- Tên Khoa Học: Fructus citri Aurantii.
- Thuộc Họ: Cam – Rutaceae.
- Thuộc tính:
Chỉ xác là quả bánh tẻ của cây cam (hái lúc gần chín), ngoài ra nguồn dược liệu còn được lấy từ cây thuộc chi Citrus họ cam Rutaceae. Chỉ xác quả được hái khi gần chín (quả bánh tẻ), quả to nên thường phải bổ đôi để phơi cho chóng khô. Chỉ là tên cây, xác tức còn cả vỏ và xơ vì do quả được bổ đôi phơi khô nên làm ruột quả bị quắt lại.
Chỉ xác có nguồn gốc từ vùng nhiệt đới Ấn Độ – Malaysia, sau lan rộng ra nhiều nước Đông Nam Á khác, trong đó có Việt Nam và cả ở Nam Trung Quốc. Ở Việt Nam, cây được trồng và còn thấy mọc hoang dại (Võ Văn Chi, 1997), được trồng rải rác ở vùng đồng bằng và trung du các tỉnh Hà Nam, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh và một số nơi khác.
Chỉ xác có hình bán cầu, đường kính 3 - 5cm, vỏ ngoài màu nâu hoặc nâu thẫm, ở đỉnh có những điểm túi tinh dầu dạng hạt trũng xuống, thấy rõ có vết vòi nhụy còn lại hoặc vết sẹo của cuống quả. Mặt cắt lớp vỏ quả giữa màu trắng vàng, nhẵn, hơi nhô lên, dày 0,4 - 1,3cm, có 1 - 2 hàng túi tinh dầu ở phần ngoài vỏ quả ngoài. Chất cứng, rắn, khó bẻ gãy. Ruột quả có từ 7 - 12 múi, một số ít quả có tới 15 - 16 múi. Múi khô, nhăn nheo, có màu nâu đến nâu thẫm, trong có hạt. Mùi thơm, vị đắng, hơi chua.
Bộ phận dùng, thu hái, bào chế và bảo quản
Bộ phận sử dụng là quả thu hái lúc gần chín. Thu hoạch chỉ xác vào tháng 7 – 8, lúc trời khô ráo, hái các quả xanh, bổ ngang làm đôi, phơi hoặc sấy nhẹ ở 40- 50°C cho tới khô. Để chỉ xác nơi khô ráo, tránh mốc mọt. Có 2 cách cách để bảo chế chỉ xác như sau:
- Thành phần hóa học:
Tinh dầu (α-Pinene, Limonene, Camphene, Terpinene, p-Cymene, Caryophyllene, flavonoid (Hesperidin, Neohesperidin, Naringin), pectin, saponin, alcaloid, acid hữu cơ.
- Tác dụng trên tử cung và ruột cô lập
Trên tử cung cô lập của chuột nhắt có thai hoặc không có thai: Vị thuốc chỉ xác, chỉ thực có tác dụng ức chế sự co bóp, nhưng cũng có trường hợp không thấy có tác dụng.
Trên tử cung cô lập của thỏ có thai hoặc không có thai. Tác dụng không ổn định, khi thì ức chế, khi thì kích thích, khi lại không tác dụng.
Trên ruột chuột nhắt cô lập, thuốc có tác dụng ức chế là chủ yếu (khoảng 70%).
Các loại dịch chiết như sắc với nước, chiết bằng cồn hoặc chế cao lỏng có tác dụng như nhau.
Adrenalin cũng có tác dụng ức chế, nhưng thời khoảng tác dụng ngắn, còn chỉ thực, chỉ xác thì tác dụng kéo dài.
- Tác dụng trên tử cung, dạ dày, ruột, thử tại chỗ (theo tài liệu Trung Quốc, 1956)
Trên tử cung thỏ có thai hay không, thuốc có tác dụng hưng phấn, gây tăng co bóp, có thể tới co cứng.
Trên dạ dày, ruột chó cũng thấy tác dụng hưng phấn, co bóp tăng nhưng nhịp co đều đặn.
Sự khác nhau giữa tác dụng trên cơ quan cô lập (ức chế) và thử tại chỗ (hưng phấn) có lẽ có vai trò của hệ thần kinh trung ương.
- Tác dụng trên mạch máu, hệ tiết niệu và hô hấp
Thử trên huyết áp của chó gây mê thấy huyết áp tăng lên, dung tích của thận giảm, lượng nước tiểu bài xuất giảm.
Trên tim ếch cô lập, nồng độ thấp làm tim tăng co bóp, nhưng nồng độ cao co bóp lại giảm. Trên chuột thấy tác dụng ức chế tim.
Thử trên hệ mạch bụng ếch, thấy tác dụng co mạch.
Không có tác dụng giãn nở hoặc co khí quản cả chuột cống trắng.
Naringin, methyl hesperidin chiết từ chỉ xác tiêm vào màng bụng chuột cống trắng, liều 5mg, tim bị ức chế ngay sau khi tiêm. Dùng liên tục 9 ngày sẽ thấy tác dụng ức chế tối đa vào ngày thứ ba. Cũng có khuynh hướng làm giảm huyết áp.
- Tác dụng trên hệ tiêu hóa
Vỏ quả có tác dụng làm tăng độ acid của dịch vị.
Thử lâm sàng điều trị bệnh lỵ trực khuẩn cho 55 trẻ em (31 cấy phân dương tính, với 13 là Shigella flexneri và 6 là S.shiga). Tiến hành 3 bước:
Bước 1: Quét sạch tích trệ đường tiêu hóa bằng chỉ xác và đại hoàng.
Bước 2: Điều trị triệu chứng dựa vào diễn biến bệnh lý như chữa sốt bằng hoàng cầm, chữa đại tiện ra máu bằng a giao.
Chỉ xác có vị the, chua, đắng, mùi thơm, tính hơi hàn, vào kinh tỳ, vị, có tác dụng tiêu tích trệ, hạ khí. thông trường vị, trừ đờm, tiêu thực (sao giòn), cầm máu (sao tồn tính).
- Công dụng
Quả: chữa thần kinh dễ bị kích thích, đánh trống ngực, hụt hơi, bệnh thần kinh gây mất ngủ, trằn trọc ban đêm, động kinh, đau nửa đầu, ăn uống không tiêu, đầy hơi, tích trệ, ho đờm, tiểu tiện khó.
Ngày 6 – 12g, có thể hơn, dưới dạng thuốc sắc bay ngâm rượu.
Hoa của chỉ xác chữa bệnh co thắt và làm thuốc an thần gây ngủ nhẹ. Dùng khoảng 1 thìa súp hoa tươi, hãm nước sôi trong 10 pհút, rồi uống. Hoa tươi đem cất sẽ được tinh dầu và nước cất hoa được dùng làm hương liệu và làm thơm thuốc.
Lá thuốc dễ tiêu hóa, dùng 3 – 4 lá hãm với nước sôi trong 15 phút rồi uống.
Dịch quả tươi; chữa bệnh chảy máu chân răng.
Chú ý: Người có thai, gầy yếu quá, tỳ vị hư hàn mà kհôոց có thấp và tích trệ, không nên dùng chỉ xác.
Liều dùng & cách dùng
Ngày dùng 3 - 9g, dạng thuốc sắc. Phối hợp trong các bài thuốc.
Đăng kí thông tin thành công
Cảm ơn bạn đã để lại thông tin
Chúng tôi sẽ liên hệ với bạn trong thời gian sớm nhất
Thông báo sẽ tự động tắt sau 5 giây...
Cảm ơn bạn đã để lại thông tin
Chúng tôi sẽ liên hệ với bạn trong thời gian sớm nhất
Thông báo sẽ tự động tắt sau 5 giây...